Chim khát nước, có tên tiếng anh là chestnut-winged cuckoo hoặc red-winged crested cuckoo ( Clamator coromandus ). Đây là một loài chim cu cu được tìm thấy chủ yếu ở Đông Nam Á và một phần ở Nam Á. Loài chim này sinh sản dọc theo dãy Himalaya và di cư về phía nam vào mùa đông để đến với Sri Lanka, miền nam Ấn Độ và vùng nhiệt đới Đông Nam Á.
Xem thêm:
Mục Lục
Phân Bổ
Chim khát nước, được tìm thấy từ phía tây dãy Himalaya đến phía đông dãy Himalaya và kéo dài đến Đông Nam Á. Chúng được ghi nhận ở nhiều quốc gia trong khu vực như Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Indonesia, Lào, Bhutan, Bangladesh, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Việt Nam, Sri Lanka và Philippines. Một số quần thể có thể không di cư.
Môi trường sống
Loài chim này thường sinh sống trong các môi trường đa dạng, bao gồm thảm thực vật dày và thấp ở vùng nhiều cây cối, rừng đầm lầy và rừng ven sông tại Assam. Chúng cũng có thể thấy ở các khu vực cây bụi, vườn cây ăn quả, đồn điền, bãi lau sậy cao, đất canh tác và làng mạc.

Trong mùa đông và khi di cư, chúng có thể xuất hiện ở rừng ngập mặn. Ở Borneo, chúng thường xuất hiện ở rừng khộp và rừng thứ sinh ở vùng đất thấp, cũng như tại các đồn điền cọ dầu, ruộng lúa trên đồi và các vườn ở vùng đất thấp. Tuy nhiên, có vẻ chúng ưa thích môi trường sống thoáng đãng hơn trên Sumatra trong cùng mùa.
Phạm vi địa lý của chúng rất rộng, xuất hiện ở độ cao lên đến 2450 m, nhưng thường được tìm thấy ở độ cao thấp hơn, đặc biệt là tại các quốc gia như Sumatra, Trung Quốc, Đông Nam Á, Bhutan, Myanmar và Sri Lanka. Chúng cũng có thể xuất hiện ở độ cao trên 365 m ở Nepal và không quá 400 m ở Bán đảo Thái-Malay.
Mô Tả
Khát nước có phần đầu, mào, lưng và cái đuôi màu đen bóng sẫm, đôi cánh màu hạt dẻ. Cái đuôi dài chia độ, nghĩa là lông đuôi ngắn dần theo từng bước từ giữa ra ngoài. Nó có đôi cánh màu hạt dẻ, phần mũ mào màu đen được tách ra hẳn với màu đen của phần lưng, bằng một vòng mảnh màu trắng giữa cổ.
Cổ họng có màu cam, ngực và bụng có màu trắng, màu xám đen xuất hiện ở phần bụng dưới gần đuôi. Mỏ, mắt và chân đều có màu đen. Chiều dài cơ thể giao động từ 38 – 46 cm, cân nặng từ 66 – 86 g.
Phân Loại
Loài này lần đầu tiên được Linnaeus đặt tên kép vào năm 1766. Mô tả của ông về cái mà ông gọi là Cuculus coromandus dựa trên ghi chú của Brisson, người đã mô tả loài chim này là “Le coucou hupрé de Coromandel” được thu thập trên bờ biển Coromandel của Ấn Độ. Buffon nhận thấy mối quan hệ gần gũi với chim cu Jacobin và gọi nó là “le Jacobin huppé de Coromande”.
Loài này sau đó được đặt dưới tên chi Coccystes, Oxylophus trước khi được đặt trong Clamator.
Di cư
Trong hành trình di cư tại Ấn Độ, loài chim khát nước chủ yếu di chuyển dọc theo dãy núi Đông Ghats, hệ thống núi chạy dọc theo bờ đông của bán đảo Ấn Độ.
Trong cuộc di cư về phía nam, chúng thường xuất hiện gần khu vực dân cư, nơi những cá thể kiệt sức có thể dễ dàng được phát hiện gần nhà người dân.
Vào giữa tháng 10, chúng có thể được quan sát với số lượng lớn tại Point Calimere, một khu vực quan trọng có thể nằm ở Sri Lanka. Đây là một trong những điểm dừng quan trọng trong cuộc hành trình di cư của loài chim này, đặc biệt là trong mùa đông tại khu vực Western Ghats.
Tập tính
Loài chim khát nước này đôi khi tham gia vào các đàn hỗn tạp, để tìm kiếm thức ăn, nhưng thông thường chúng được nhìn thấy đơn lẻ. Giống như loài chim tu hú, chim khát nước cũng không làm tổ mà đẻ trứng ký sinh của mình vào tổ các loài chim khác.
Chim khát nước ăn gì?
Con mồi của chim khát nước chủ yếu là các loài côn trùng lớn, đặc biệt là sâu bướm, bọ cánh cứng, bọ ngựa, kiến và động vật trực giao lớn. Ngoài ra, chúng cũng có thể săn nhện và ưa thích ăn trái cây nhỏ. Một điều đặc biệt là chúng có khả năng loại bỏ những chất khó chịu trong dạ dày của sâu bướm lớn trước khi ăn phần còn lại. Chúng thường tham gia săn mồi theo đàn hỗn loài.

Sinh sản
Chúng thực hiện quá trình sinh sản trong mùa mưa, với chu kỳ sinh sản ở Ấn Độ từ tháng 4 đến tháng 8, chủ yếu diễn ra vào tháng 5 và tháng 6. Tại Bangladesh, quá trình này thường diễn ra từ tháng 3 đến tháng 8, trong khi ở Myanmar chủ yếu là từ tháng 3 đến tháng 5, với lứa thứ hai có thể kéo dài đến tháng 8. Việc sinh sản ở Hàn Quốc thường được ghi nhận vào cuối tháng 4 đến tháng 5.
Chúng đẻ trứng ký sinh vào tổ của các loài chim khướu là chủ yếu, bao gồm khướu cổ nhỏ (Garrulax monileger) chiếm đến 45% số trường hợp ghi nhận. Ngoài ra, nhiều loài khác như Ác là thông thường, fork-tailed drongo, Ác là phương Đông, Chích chòe nước trán trắng, Hoét lam (Blue whistling thrush), Sáo đất đầu cam (Orange-headed thrush), Hoét ngực đen (Black-breasted thrush), Khướu bụi đầu trắng (Turdoides leucocephala), Họa mi đất má trắng (Rusty-cheeked scimitar babbler) và Bách thanh đuôi dài (Schachwürger) cũng là vật chủ của chúng.
Trứng có màu xanh nhạt và thường không có độ bóng, thường có nhiều hơn một quả trong một tổ. Kích thước trứng dao động từ 25.4 đến 29.9 mm chiều dài và từ 20.3 đến 24.4 mm chiều rộng. Chim non chưa được mô tả chi tiết và dữ liệu về chúng vẫn còn hạn chế, tuy nhiên, một số thông tin cho thấy có thể có nhiều con chim non được nuôi từ một tổ chủ duy nhất.
Hiện trạng bảo tồn
Hiện tại, loài chim khát nước không đối mặt với tình trạng đe dọa toàn cầu và được xếp loại là “Ít quan tâm nhất” theo BirdLife International. Mặc dù mức độ quần thể chưa được đánh giá đầy đủ, nhưng loài này dường như khá phổ biến và có một số bằng chứng gián tiếp về sự suy giảm ở Bán đảo Thái-Malay. Tuy nhiên, nó vẫn được coi là khá phổ biến ở Trung Quốc. Ở Nepal, nó có mặt sâu ở địa phương. Trong khi ở Ấn Độ, đặc biệt ở khu vực sinh sản và trú đông, nó khá hiếm.

Tại Thái Lan, loài này không phổ biến ở tất cả các mùa, và ở Việt Nam, nó được cho là khá hiếm. Tình hình tương tự cũng được ghi nhận ở phần còn lại của Đông Dương, ví dụ như chỉ có một kỷ lục ở Campuchia trước năm 1970. Ngoài ra, ở những nơi không phải là khu vực sinh sản của chúng, loài chim khát nước này thỉnh thoảng chỉ được nhìn thấy ở Borneo và Sumatra, trong khi rất hiếm ở Sri Lanka, Java và Bali.
Tuổi thọ
Đang cập nhật
Tài liệu tham khảo: