Ó cá hay còn gọi là ưng biển (Pandion haliaetus) là một loài chim ăn thịt, phân bố rộng rãi thứ hai trên thế giới chỉ sau loài chim Cắt lớn (Falco peregrinus). Loài chim này được tìm thấy ở tất cả các châu lục trừ lục địa Nam Cực, tại những vùng đất có khí hậu nhiệt đới và ôn đới.
Xem thêm:
- Ó Biển | Loài chim săn mồi theo bầy đàn
- Mòng Biển Xira Chân Đen Và Cuộc Tấn Công Của Đại Bàng Biển Stellers
Phân bố
Ở Bắc Mỹ, Ó cá sinh sản khắp các vùng đất từ Alaska, Newfoundland đến tận phía Nam các bang vùng vịnh của Hoa Kỳ. Nơi chúng trú đông kéo dài từ miền nam Hoa Kỳ đến tận Argentina.
Còn ở châu Á, các quốc gia loài chim này có thể di trú bao gồm Nam Á, Đông Nam Á từ Myanma qua Đông Dương, miền nam Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Mô tả
Ó cá là loài chim săn mồi kích cỡ trung bình kiếm ăn chủ yếu vào ban ngày, với chiều dài cơ thể từ 55 – 60cm, chiều dài sải cánh giao động từ 127 – 180 cm, trọng lượng cơ thể từ 0.9 – 2.1kg.
Phần trên lưng có màu nâu đậm trong khi ngực có màu trắng và đôi khi xuất hiện thêm các sọc màu nâu, còn phần lông còn lại chủ yếu có màu trắng. Trên đầu còn xuất hiện thêm một vòng màu sẫm quanh mắt, kéo dài đến hai bên cổ.
Đồng tử mắt có màu vàng và nâu, trong khi vòng màng xung quanh trong suốt với màu xanh dương nhạt.
Mỏ màu đen cong quặp sắc nhọn đặc thù của các loài chim săn mồi, chân và bàn chân có màu trắng với các móng vuốt dài cong quặp sắc nhọn màu đen. Ó cá có một cái đuôi ngắn, cánh hẹp và bốn lông vũ ngoài cùng dài như những ngón tay, lông thứ 5 ngắn hơn làm cho nó có hình dáng rất đặc biệt ở đôi cánh.
Chim trống và mái bề ngoài trông khá giống nhau, nhưng nhìn kỹ thì vẫn có thể phân biệt được, ở chim trống trưởng thành khác với chim mái ở chỗ cơ thể chim trống mảnh hơn và cánh dẹp hơn. phần lông ở ngực của con trống nhỏ và nhạt màu hơn so với chim mái.
Chim Ó cá ăn gì?
Cũng như cái tên gọi Ó cá của nó, thức ăn của loài chim săn mồi này hầu như chỉ là cá và chiếm đến tận 99% khẩu phần ăn của chúng.
Loài Ó cá có các đặc điểm vật lý và hành vi rất đặc biệt, giúp chúng săn bắt con mồi vô cùng hiệu quả. Ó cá có thị lực vô cùng tốt, có thể nhận dạng các vật thể ở dưới nước từ trên không.
Ó cá có thể nhìn thấy con mồi đầu tiên khi ở độ cao từ 10 – 40 m, sau khi lượn vài vòng trên không để quan sát con mồi, khi lượn đôi chân duỗi thẳng ra phía sau đuôi.
Khi con mồi được phát hiện, để chắc chắn ó cá sẽ dừng lại một lúc ngay trên không để quan sát, một khi con mồi được xác định, nó nhanh chóng lao xuống đôi cánh thu hẹp lại về phía sau, hai chân hướng thẳng về phía trước, các móng vuốt mở rộng sẵn sàng tóm lấy con mồi.
Sau khi lao mình xuống nước, lúc này gần như toàn bộ cơ thể ó cá đều nằm trong nước. Các ngón chân quắp giữ chặc con mồi, đôi cánh dài 180cm bắt đầu vỗ mạnh tạo lực nâng vô cùng lớn, nhấc bổng cơ thể lên khỏi mặt nước mang theo cả cả con mồi.
Sau khi vừa bay ra khỏi nước, ngay trên không trung, với bộ lông dính đầy nước, nó bắt đầu rung lắc cơ thể, nước từ đó văng ra, giúp lông khô dần. Ngay sau đó con mồi được mang đến một cành cây quen thuộc và nơi đây bữa ăn được bắt đầu.
Ó cá có vẻ thích săn bắt và ăn những con cá có trọng lượng từ 150 – 300 gam, chiều dài con mồi giao động từ 25-35 cm, đôi khi nó cũng săn bắt cả những con cá có trọng lượng từ 50 g đến 2 kg và với kích thước bất kỳ. Khi săn bắt những con cá to, ó cá có thể sẽ phải mất nhiều thời gian ở dưới nước hơn.
Ngoài cá, chúng còn săn bắt thêm các loài động vật khác, bao gồm loài gặm nhấm như thỏ, lưỡng cư, các loài chim nhỏ khác và bò sát nhỏ.
Ó cá đặc biệt thích nghi với cách săn mồi này, hai lỗ mũi khi xuống nước có thể khép lại để giữ không cho nước tràn vào bên trong. Các móng chân cong vút sắc bén có vai trò như những móc câu giữ chặc con mồi.
Sinh sản
Ó cá sống trong nhiều kiểu môi trường khác nhau, và làm tổ ở bất kỳ nơi nào có nước, bao gồm các hồ, những con sông hoặc các vùng nước lợ ven biển, nơi mà có thể cung cấp đầy đủ thức ăn cho chúng trong suốt mùa sinh sản.
Chim ó cá bắt đầu sinh sản ở đô tuổi từ 3 đến 4. Ở một số nơi có mật độ chim ó cá cao như tại một số vịnh ở Mỹ, ó cá thậm chí không thể sinh sản sớm hơn lúc 7 tuổi vì thiếu vị trí làm tổ.
Tổ của chúng chủ yếu được làm tại các tảng đá, trên các cành cây trơ trụi lá, trên đỉnh các cột điện, hoặc bất cứ nơi nào chúng có thể làm, tuy nhiên không phải ở dưới mặt đất.
Tổ Ó cá có thể nói là một đống các cành cây lớn nhỏ khác nhau, thêm vào đó còn có cả cỏ và rong biển. Chim bố mẹ sẽ thay phiên nhau tha gắp từng cành cây về. Tổ có đường kính khoảng 2m và trọng lượng của một tổ có thể lên đến 135kg. Chính vì thế với những tổ được làm trên đỉnh cột điện có thể gây nguy hiểm chập điện bất kỳ.
Chim mái sẽ đẻ từ 2 đến 4 quả trứng màu trắng kèm theo các đốm đậm màu nâu đỏ. trứng nặng khoảng 65g. Chim mẹ ấp trứng trong khoảng từ 35 đến 43 ngày. Ở những nơi có tuyết rơi, chim mẹ buộc phải ở trong tổ rất lâu để giúp những quả trứng không bị tuyết che lấp.
Ở những nơi có nguồn thức ăn khan hiếm, hầu như chỉ có một chim non nở ra đầu tiên là có thể sống sót và phát triển tiếp. Hoặc những con non nở ra sau cùng yếu ớt cũng có thể bị chính các anh chị của nó giết chết.
Vào mùa xuân chim ó cá non có thêm một lớp lông vũ dày hơn so với lớp lông tơ trước đây. Chim non sẽ nhận sự chăm sóc của bố mẹ trong khoảng từ 8-10 tuần trước khi chúng có cuộc sống hoàn toàn tự lập.
Hiện trạng bảo tồn
Ó cá được xem là loài có ít mối quan tâm nhất, vì phạm vi phân bố rộng lớn. Tuy nhiên số lượng ó cá đang bị suy giảm tại một số khu vực, do các tác động của con người bao gồm các hành vi lấy trộm trứng, săn bắn, ảnh hưởng của thuốc trừ sâu, kèm theo đó là sự xâm lấn của đô thị tại các khu vực ven biển.
Tuổi thọ
Tuổi thọ trung bình của loài chim ó cá là 30 năm.
Video về loài chim Ó cá / Ưng biển
Tài liệu tham khảo: