Chim ruồi / Hummingbird ( Trochilidae ), được xem là loài chim nhỏ nhất trên toàn thế giới. Loài chim này tập trung nhiều ở xứ Cuba. Chúng có thể so sánh được với kích cỡ của những con ong, bướm…
Xem thêm:
Mô tả
Chim mái chỉ dài khoảng 6,1 cm và nặng khoảng 2,6 gram, trong khi chim trống còn nhỏ hơn, nó chỉ phát triển được 5,51 cm dài nặng khoảng 1,95 gram.
Nói chung chim Hummingbird có màu sắc sặc sỡ, thường phản chiếu ánh sáng rất đẹp. Lông chim có cấu trúc như lăng kính “nano” trên bề mặt, có thể tẻ ánh sáng tạo ra những sóng phản xạ làm mê muội mắt người nhìn – một hiện tượng ta thường thấy trên mặt cái đĩa CD khi có ánh sáng.
Cả hai chim trống và mái đều nhỏ và mảnh (giống như ong). Chim trống có một bộ lông đỏ nóng ở cổ họng, đó là dưới các bộ phận có màu xám trắng. Chim trống không sinh sản khi chưa thành niên và nó có hình dáng giống con cái. Vì vậy khó phân biệt chúng với nhau. Bạn cần phải nhìn kỹ những cánh chim có những chấm màu xanh lam. Mũi cánh của con cái có đốm trắng.
Trong tiếng Việt ta gọi chúng là chim “ruồi” hay chim “ong” vì chim loại nầy có tài dừng một chỗ giữa không trung, bay “trực thăng” hay bay thục lùi. Khi bay đường thẳng chim có thể đạt đến tốc độ hơn 54 km/giờ. Trên thực tế loài chim này dành thời gian để bay nhiều hơn bất cứ loài chim nào. Người Nhật gọi nó là “hachidori” (hachi có nghĩa là ong, dori là chim).
Chim ruồi ăn gì?
Chim ruồi cùng họ với chim én, tuy nó cũng ăn cả nhện và sâu con để lấy protein, nhưng thức ăn chính của Hummingbird là mật hoa. Vì thế chim cần có mỏ và lưỡi dài để có thể thọc sâu vào hoa. Có con mỏ dài hơn cả thân mình hay được biến dạng ra hình cung để chuyên dùng cho loài hoa có ống mật sâu và cong như thế.
Thông thường, chúng được nhìn thấy dọc theo bờ biển, trong rừng nhiệt đới nội địa, và trong những khu vườn ngoại ô. Chim ruồi Hummingbird không di cư do khí hậu chúng sống. Chúng di chuyển khoảng cách ngắn, vì những thay đổi về mật hoa có chất lượng cao từ hoa trong những mùa khác nhau trong năm.
Mỗi ngày một con chim ruồi có thể viếng đến 1000 bông hoa để hút mật. Khoảng 8000 loài thực vật được chim nầy giúp cho việc giao phấn.
Sinh sản
Sống trong một khí hậu nhiệt đới, loài chim này sẽ kết bạn với nhau sau mùa mưa . lúc này mật hoa sẽ phong phú hơn , những bông hoa này là để cung cấp thức ăn bổ sung mà chim mái sẽ cần sau khi chim mái đẻ.
Có nhiều hơn một con chim trống cạnh tranh với nhau để có được một con chim mái, sau khi giao phối chim mái sẽ xây dựng tổ và thường là nó sẽ đẻ khoảng 2 trứng màu trắng, chim mái sẽ ấp trứng trong 14 đến 23 ngày, và những chú chim non này sẽ được chim mẹ chăm sóc từ 18 đến 37 ngày trước khi chúng có thể tự bay đi kiếm ăn, chim trống sẽ không tham gia vào việc nuôi dạy chim non.
Chim ruồi dành nhiều thời gian bay hơn bất cứ loài nào khác. Khi bay tất cả các bộ phận trên cơ thể đều hoạt động mạnh, nhất là đôi cánh cùng với nhiệt độ cơ thể cao, khiến những con chim này ăn gần như liên tục cả ngày.
Đặc biệt, chim ruồi không thể giữ ấm đủ vào ban đêm. Nó chỉ đơn giản là quá nhỏ để duy trì nhiệt độ cơ thể. Vào ban đêm nó sử dụng một chuyển thể đặc biệt gọi là Torpor, để giữ ấm cho thân nhiệt.
Tuổi thọ
Loài chim này có thể sống thọ đến 7 năm trước khi trở về cát bụi.