Cú đại bàng Á-Âu ( Bubo bubo ) hay còn được gọi với tên cú đại bàng, chúng là một loài cú lớn cư trú ở đại lục Á Âu.
Xem thêm:
Và đây cũng là một trong những loài chim lớn nhất thuộc họ Cú mèo, nó lớn hơn cả loài cú tuyết, nhưng nhỏ hơn đại bàng vàng ( Aquila chrysaetos ). Chúng đôi khi được cho là loài cú lớn nhất thế giới.
Mục Lục
Mô tả
Chim mái có thể phát triển chiều dài cơ thể lên đến 75 cm, với sải cánh dài tới 188 cm, trọng lượng giao động từ 1,75 đến 4,6 kg. Chim trống nhỏ hơn một chút với cân nặng từ 1,22 đến 3,2kg.
Cú Đại Bàng Á-Âu có hai chùm lông mọc dài ra hai bên đầu, có chiều dài giao động từ 63,3 đến 86,6 mm, nếu không bị hư hại, những sợi lông này ở chim trống được cho là thẳng đứng hơn so với chim mái.
Bộ lông là những vệt đốm màu nâu đen sậm và hung, các đốm nâu đen trở nên dày đặc ở trước trán, gáy, hai bên và sau cổ. Đuôi khá ngắn có màu nâu tía, kèm theo các đốm nâu xám đen với khoảng sáu thanh màu nâu đen.
Đĩa mặt ít phát triển hơn các loài cú khác, đôi mắt to đặc biệt với quầng mắt màu cam, nhưng có thể thay đổi màu tuỳ theo vùng, có thể là đỏ tươi hoặc vàng nhạt.
Chân và bàn chân có lông phủ kín. Cái mỏ màu đen cong quặp sắc nhọn có chiều dài giao động từ 38,9–59 mm, kèm theo đó là những móng chân màu đen sắc nhọn, với chiều dài giao động từ 21,6 đến 40,1 mm.
Những cái móng này dùng để giữ con mồi tại chỗ, gây tổn thương tới các cơ quan và gây mất máu cho con mồi.
Cả hai giới tính đều giống nhau, thoạt nhìn rất khó để phân biệt, nhưng nếu có thể đo kích thước của chúng bằng tay sẽ biết được giới tính, ngoài ra ở một số vùng cho rằng ở chim mái có màu lông đậm hơn, tuy nhiên điều này là chưa rõ ràng.
Các lông của cú đại bàng có trọng lượng nhẹ và chắc chắn, tuy nhiên trong quá trình săn mồi, các lông có thể bị hư hỏng, những lông hư này sẽ được thay thế mỗi năm, để đảm bảo bộ lông luôn hoàn hảo.
Với kích thước lớn, cồng kềnh, cơ thể hình thùng, hai bên tai lông dựng đứng kèm theo một đôi mắt to màu cam, khiến cú đại bàng trở nên rất đặc biệt.
Môi trường sống
Ngoài việc là một trong những loài cú sống lớn nhất, nó còn là một trong những loài được phân bố rộng rãi nhất.
Chúng có thể được tìm thấy ở nhiều nơi, nhưng cu trú tập trung ở các vùng rừng núi, rừng lá kim, rìa các sa mạc rộng lớn, những nơi có vách đá và khe núi được bao quanh bởi các tán cây và bụi rậm. Các đồng cỏ hoặc núi cao, thảo nguyên và các địa điểm xa xôi khác.
Về cơ bản cú đại bàng có thể được tìm thấy ở hầu hết mọi điều kiện khí hậu và môi trường trên lục địa Á-Âu, nhưng chúng có thể sẽ vắng mặt tại các khu rừng nhiệt đới ẩm ở Đông Nam Á, cũng như vùng lãnh nguyên Bắc cực cao.
Tập tính
Cũng như các loài cú khác, cú đại bàng cũng chủ yếu hoạt động về đêm, nó hoạt động mạnh ở vài giờ đầu tiên sau khi mặt trời lặn, cũng như vài giờ trước lúc mặt trời mọc.
Nó thường tạo ra các tiếng kêu vào những thời điểm khác nhau trong đêm, và khi kêu nó thường đứng tại các đỉnh núi nhô cao.
Ở những tháng lạnh vào cuối thu đến đông tiếng cú sẽ trở nên ít đi. Tiếng kêu từ tháng 10 đến tháng 12 chủ yếu cho các hoạt động lãnh thổ, còn tiếng kêu vào tháng 1 đến tháng 2 hướng tới mục đích giao phối.
Một tiếng kêu rất ghê sợ sẽ được cú thực hiện mỗi khi gặp nguy hiểm, kèm theo tư thế phòng thủ, hạ thấp đầu, xù lông lưng, quạt đuôi và dang rộng đôi cánh.
Cú đại bàng ăn gì?
Cú đại bàng săn bắt một loạt các con mồi khác nhau, chủ yếu là động vật có vú nhỏ, như thỏ. kể cả những con lợn rừng con, đến các loài chim cỡ lớn cũng được bắt, Nó ăn cả bò sát, lưỡng cư, cá, côn trùng lớn và các loài động vật không xương sống khác.
Sinh sản
Chim trống sẽ có trách nhiệm chọn địa điểm sinh sản, tổ được chọn làm tại những vách đá, hoặc sườn dốc, những khe hở hoặc hang động trong các tảng đá. Hoặc nó cũng có thể làm tổ ngay trên mặt đất giữa các rễ cây tại các địa hình nhô cao.
Chim mẹ sẽ đẻ từ 1 đến 2 trứng, hiếm khi là 3 đến 4, nhưng một số trường hợp có thể đẻ lên đến 6 trứng. Thời gian ấp kéo dài từ 31 đến 36 ngày. Con non mới nở có bộ lông tơ màu xám, một số màu trắng, và một số màu nâu xám.
Điều này giúp chúng nguỵ trang vào môi trường tránh ánh mắt những kẻ săn mồi. Sau 4 ngày tuổi các chim non bắt đầu mở mắt. Chim bố đi săn mồi, mang về để trong tổ, chim mẹ có nhiệm vụ bảo vệ và xé các phần thức ăn phù hợp với thể trọng các con non.
Cú non phát triển rất nhanh, chỉ sau khoảng 3 tuần tuổi nó đã có thể nuốt gọn các con mồi nhỏ mà không cần mẹ nó xé. Lúc này chim mẹ bắt đầu rời khỏi tổ, tìm kiếm con mồi để tăng lượng thức ăn khi các con non đang ăn ngày một nhiều.
Sau từ 5 đến 7 tuần tuổi, các con non bắt đầu mạo hiểm ra khỏi tổ và đi lòng vòng, lúc này chúng có thể thực hiện được các chuyến bay ngắn, tại thời điểm này chim bố mẹ sẽ chăm sóc chúng ít nhất 1 tháng nữa, trước khi để chúng có cuộc sống hoàn toàn tự lập.
Cú con trưởng thành về giới tính vào năm sau, nhưng sẽ không sinh sản cho đến khi chúng tìm được vùng lãnh thổ riêng, có thể lúc này nó được 2 hoặc 3 tuổi.
Hiện trạng bảo tồn
Trong tự nhiên cú đại bàng gần như không có kẻ thù tự nhiên, và nó được xem là loài ăn thịt ở đỉnh cao của chuỗi thức ăn. Các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu là do con người tạo ra, chủ yếu là do điện giật, tai nạn giao thông, săn bắn vv…
Hiện nay số lượng loài cú đại bàng được cho là giảm do các hoạt động của con người. Tuy nhiên trên phạm vi rộng với số lượng lớn chúng lại được xem là loài có ít mối quan tâm.
Tuổi thọ
Cú đại bàng có thể sống lên đến 20 năm trong tự nhiên.
Tài liệu tham khảo: