Cú tuyết ( Bubo scandiacus ) hay còn được gọi với một số tên khác như cú trắng, cú bắc cực… Chúng được biết đến là một trong những loài cú lớn nhất thế giới.
Xem thêm:
Phân bố
Cú tuyết rất dễ nhận biết với bộ lông màu trắng và những đặc trưng của họ nhà cú. Loài này có nguồn gốc ở Bắc Cực, Bắc Mỹ và Á-Â.
Mô tả
Nếu không quan sát kỹ, rất có thể sẽ nhầm tưởng là một cục tuyết, khi chúng đậu trên nền tuyết. Với bộ lông trắng và dày này, giúp chúng thích nghi tốt nhất với cuộc sống khắc nghiệt tại vùng cực Bắc, với cái lạnh lên đến – 62 độ C.
Cú tuyết trống trưởng thành thường có bộ lông màu trắng gần như toàn bộ, tuy nhiên một số còn có thêm các đốm nâu. Bộ lông cú mái thường sẽ đậm màu hơn, khi xuất hiện thêm nhiều đốm đen trong nền lông trắng.
Cú tuyết có đôi mắt màu vàng sáng và đĩa mặt nông, các ngón chân có lông trắng rất dày bao phủ, chỉ để lòi ra những móng vuốt màu đen cong quặp sắc nhọn.
Cú tuyết có chiều dài cơ thể trung bình từ 52,5 – 64 cm, chiều dài tối đa của loài cú này là khoảng 70,7 cm. Sải cánh cú tuyết trống có chiều dài trung bình khoảng 146,6 cm và cân nặng là 1,6 kg. Cú mái có sải cánh dài hơn một chút khoảng 159 cm với trọng lượng khoảng 2,1 kg.
Những con cú tuyết chưa trưởng thành, có bộ lông màu xám đen. Với bộ lông này giúp cú trắng ngụy trang vô cùng hiệu quả, khi sống tại các vùng lãnh nguyên với nhiều kẻ thù. Bộ lông xám sẽ dần chuyển sang màu trắng khi cú trắng trưởng thành hơn.
Hành vi
Cú tuyết có thể hoạt động ở một mức độ nào đó vào cả ban ngày và đêm. Cú trắng có chuyến bay khá tốt, với những cú lướt và bay nhấp nhô ở độ cao thấp.
Cú tuyết còn có khả năng đi bộ và chạy khá nhanh, cú trắng sử dụng đôi cánh để giữ thăng bằng khi cần thiết. Hơn thế cú trắng còn có thêm khả năng bơi lội từ rất sớm, từ khi chúng còn chưa biết bay.
Di cư
Vào mùa đông, một số cú tuyết rời khỏi Bắc cực di cư đến các khu vực xa hơn về phía nam.
Săn mồi
Cú tuyết có thể săn mồi gần như là bất cứ lúc nào cả ngày lẫn đêm, chỉ trừ những lúc thời tiết cực kỳ khắc nghiệt.
Cú tuyết thường kiếm ăn trên mặt đất, chúng có vẻ dành phần lớn thời gian để đậu trên mặt đất, hoặc ở một độ cao vừa phải so với mặt đất, như trên trụ rào, cột điện, hoặc biển báo đường bộ…
Hầu hết cú tuyết săn bắt con mồi theo kiểu “ngồi và chờ đợi”. Ngoài ra đôi khi chúng còn bay lơ lửng một chỗ trên không để quan sát con mồi, và bổ nhào xuống khi con mồi được xác định, con mồi có thể bị chộp ngay trên mặt đất, trong không trung hoặc cá bị bắt từ mặt nước.
Một kỹ thuật săn mồi khác theo kiểu “quét”, trong đó cú tuyết bay ngang qua và vồ lấy con mồi, giữ nó trong chân và tiếp tục bay đi. Hơn thế, chúng còn có thể săn những con mồi đã ẩn nấp kỹ trong lớp tuyết dày đến tận 20 cm.
Mỗi ngày cú tuyết có thể bắt khoảng 7 đến 12 con chuột nhắt, để đáp ứng nhu cầu thực phẩm của mình và có thể ăn hơn 1.600 con chuột lem-ming mỗi năm.
Khi bắt được con mồi, cú trắng thường sẽ nuốt toàn bộ với những con mồi có kích cỡ nhỏ, những con mồi lớn hơn sẽ bị chúng xé nhỏ ra trước khi ăn.
Các dịch dạ dày sẽ giúp chúng tiêu hoá con mồi, trong khi xương, lông và răng, không tiêu hoá được sẽ bị đầm lại thành các viên hình bầu dục, rồi bị tống ra ngoài sau khoảng 18 đến 24 giờ sau khi ăn.
Cú tuyết chủ yếu ăn chuột lem-ming, và các loài động vật gặm nhấm nhỏ khác trong suốt mùa sinh sản. Cú tuyết còn là những kẻ săn mồi cơ hội, con mồi cũng thay đổi đáng kể, vào những thời điểm có mật độ con mồi thấp, chúng có thể chuyển qua săn bắt các loài gà gô nhỏ.
Cú tuyết ăn nhiều loại động vật nhỏ như chuột đồng, nhưng chúng cũng săn cả những loài động vật có vú lớn hơn như thỏ, chuột xạ, chuột mar-mot, sóc, gấu mèo con, sóc chó thảo nguyên, chuột cống, chuột chũi, và các loài chim bao gồm gà gô, vịt, ngỗng, chim dẽ, gà lôi, gà rừng, gà nước, chim lặn, mòng biển, chim sẻ, và thậm chí cả các loài chim ăn thịt khác, kể cả các loài cú khác.
Sinh sản
Cú trắng thường được tìm thấy ở khu vực xung quanh vùng cực Bắc. Và những khu vực sinh sản của chúng thường được bao phủ bởi rêu, địa y, nơi có một số tảng đá, và thường là những nơi có độ cao thấp.
Chim mẹ một mình ấp trứng trong khoảng 31 – 33 ngày. Cú con mới nở yếu ớt được bao phủ bởi lớp lông tơ màu trắng.Qáu trình sinh sản thường được diễn ra trong khoảng tháng năm hoặc tháng sáu. Tổ thường được làm ngay trên mặt đất, trên một gò đất hoặc các tảng đá. Cú mẹ có thể đẻ từ 3 đến 11 quả trứng, và điều này còn tùy thuộc vào số lượng con mồi hiện tại nhiều hay ít.
Lúc này cú mẹ dành phần lớn thời gian trong tổ để ấp ủ chúng, khi chim bố mang thức ăn về, chim mẹ nhận lấy rồi xé nhỏ con mồi mớm cho con non, và sẽ tăng dần kích thước cho đến khi cú con có thể ăn toàn bộ con mồi.
Thức ăn được mang về bời chim trống, và những con mồi dư thừa không ăn hết được cất giữ xung quanh tổ.
Tuy nhiên không phải lúc nào khi làm tổ, cú tuyết cũng mang chuột về để xung quanh tổ như vậy, thực tế chỉ những khi nào số lượng chuột lem-ming nhiều quá mức bình thường, lúc đi săn ăn không hết, và theo bản năng cú trắng không thể ngăn cản việc mình tiếp tục bắt một con mồi khác khi đã no.
Khi con non trưởng thành hơn, lúc này cú mẹ không ở trong tổ như trước mà sẽ bay đến đậu ở một nơi gần đó, để quan sát và sẵn sàng đánh trả nếu có bất kỳ kẻ thù xâm phạm.
Những kẻ thù chính của chúng trong mùa làm tổ bao gồm cáo Bắc cực, quạ và chim mòng biển, chó sói xám cũng như các loài chim săn mồi khác.
Khi tấn công, cả hai chim bố mẹ sẽ cùng tham gia, chúng tấn công mạnh mẽ bằng cách bổ nhào từ trên xuống, làm phân tâm và thu hút các động vật ăn thịt đi xa khỏi tổ. Còn khi kẻ thù là các loài chim, cú tuyết sẽ đứng yên dưới đất và đá ngược móng vuốt lên không trung, khi kẻ thù tấn công từ trên xuống.
Khi được 2 tuần tuổi, cú con có thể đi bộ xung quanh ra khỏi khu vực tổ. Sau từ 18 – 28 ngày tuổi, cú con có thể đi bộ ra xa tổ và ẩn nấp vào những ngõ ngách, thảm thực vật hoặc tìm sự bảo vệ từ mẹ chúng. Tuy nhiên lúc này chúng vẫn chưa biết bay.
Sau từ 50 – 60 ngày tuổi, cú con có thể bay tốt và hơn thế lúc này chúng có thể tự săn mồi cho mình. Những con cú này bắt đầu sinh sản khi chúng được gần 2 tuổi.
Hiện trạng bảo tồn
Cú tuyết hiện được xem là loài sắp nguy cấp.
Tuổi thọ
Tuổi thọ trung bình của cú tuyết trong tự nhiên khoảng 10 năm, còn trong điều kiện nuôi nhốt chúng có thể sống tận 25 – 30 năm.
Tài liệu tham khảo: