Đà điểu châu Phi (danh pháp khoa học: Struthio camelus) là một loài chim chạy, có nguồn gốc từ châu Phi.
Xem thêm:
- Đà điểu đầu mào phương Nam | Loài chim nguy hiểm nhất thế giới
- Sếu đầu đỏ & Vũ Điệu Mê Hoặc Nơi Rừng Tuyết
Tuy là chim, nhưng đà điểu có hình thể rất khác biệt với cái cổ dài, chân dài và có thể chạy với tốc độ lên đến 65 km/giờ. Đà điểu được xem là loài chim còn sống lớn nhất và được con người nuôi trên khắp thế giới.
Mục Lục
Phân bố – Môi trường sống
Trong tự nhiên đà điểu châu Phi sống ở thảo nguyên savanna và vùng Sahel của châu Phi, về phía Bắc và Nam của vùng rừng xích đạo.

Mô tả
Đà điểu châu Phi nặng từ 90 đến 130 kg. Một số con trống đã được ghi nhận là có thể nặng đến 155 kg. Đà điểu châu Phi trống trưởng thành có lông chủ yếu là màu đen với một vài điểm trắng ở cánh và đuôi. Đà điểu mái và con non có màu xám nâu nhạt với vài đốm trắng.
Đà điểu châu Phi trống dùng đôi cánh nhỏ do không dùng để bay nên bị thoái hóa của nó để múa gọi bạn tình và che chở cho đà điểu con. Bộ lông của chúng mềm và khác biệt so với lông vũ của loài chim bay. Vẫn còn những cái móng trên hai cánh của chúng.
Nó có cặp chân khỏe và không có lông. Chân có hai ngón với một ngón lớn hơn trông giống như móng ngựa. Điểm độc đáo này giúp cho khả năng chạy rất tốt của đà điểu. Với lông mi rậm và đen, cặp mắt của Đà điểu châu Phi lớn nhất trong các loài động vật trên cạn còn sống.
Ở độ tuổi trưởng thành (khoảng từ 2–4 năm), đà điểu châu Phi trống cao 1,8–2,7 m , đà điểu mái cao 1,7–2 m. Trong năm đầu tiên, đà điểu con tăng cao 25 cm mỗi tháng. Một năm tuổi đà điểu có thể đạt trọng lượng 45 kg.
Đà điểu châu Phi ăn gì?
Đà điểu châu Phi sống theo từng nhóm từ 5–50 con, chúng có cuộc sống du cư theo những loài thú ăn cỏ khác như ngựa vằn hay linh dương. Chúng ăn chủ yếu là các hạt hay cây cỏ, đôi khi chúng ăn cả những động vật nhỏ như cào cào.

Chúng không có răng, khi ăn nó phải nuốt sỏi để giúp cho việc nghiền thức ăn trong mề. Chúng có thể đi trong một thời gian dài không cần đến nước, mà chỉ dựa vào độ ẩm của những cây cỏ chúng nuốt vào. Tuy nhiên chúng thích nước và thường hay tắm.
Với khả năng nghe và nhìn cộng thêm thính giác nhạy bén, chúng có thể phát hiện những loài thú săn mồi như sư tử từ khoảng cách xa.
Sinh sản
Đà điểu châu Phi trưởng thành hoàn toàn ở độ tuổi 2 – 4 năm, con trống chậm hơn con mái khoảng 6 tháng. Mùa sinh sản bắt đầu từ tháng 3 hay 4 đến tháng tháng 8, tùy thuộc vào từng vùng địa lý. Đà điểu trống dùng tiếng rít và những âm thanh khác để đánh nhau, chiếm lãnh thổ và quyến rũ đà điểu mái, một đà điểu trống sẽ có từ 2 – 5 đà điểu mái chốn “hậu cung”. Kẻ chiến thắng sẽ giao phối với toàn bộ số đà điểu mái trong hậu cung nhưng chỉ lập một “hậu” mà thôi.
Tất cả các đà điểu châu Phi trong “hậu cung” sẽ cùng đẻ trứng vào một tổ của đà điểu mái được lập “hậu”, tổ chỉ đơn giản là một cái hố sâu từ 30 – 60 cm. Trứng nặng từ 1,3 – 1,4 kg, dài 15 cm, rộng 13 cm, và đây cũng là loại trứng lớn nhất, nhưng lại là loại trứng nhỏ nhất nếu so sánh tương đối với kích thước của đà điểu.
Mỗi tổ có từ 15 – 60 trứng màu trắng nhạt và bóng láng. Con cái ấp trứng vào ban ngày còn con trống thì vào ban đêm, bởi vậy chúng có màu lông khác nhau để tránh bị phát hiện khi đang ấp trứng. Quá trình ấp từ 35 – 45 ngày và con trống thường đón chào con non mới nở. Tuổi thọ của đà điểu châu Phi là từ 30 – 70 năm, trung bình là 50 năm.
Đà điểu con mới nở đã mở mắt và trong vòng 1, 2 tiếng chúng đã có thể chạy nhảy. Hầu như những loài chim không bay, con của chúng mở mắt lúc mới chào đời và có lớp lông tơ bảo vệ, thân hình của đà điểu con cũng không ngoại lệ. Còn những loài biết bay, thì hầu như con của chúng không có lông và không mở mắt, chúng phải nhờ vào mẹ hay bố tìm mồi.
Đà điểu con rất hiếu động, bố mẹ chúng phải tập họp chúng lại như một nhà trẻ di động. Chúng chạy lung tung và trong vòng nửa năm đầu đà điểu con rất dễ chết vì những lý do khác ngoài thiên nhiên, nhưng sau đó chúng lớn rất nhanh.

Trước đây đà điểu bị săn bắt và được nuôi vì bộ lông của chúng, đã từng là vật trang trí cho mũ của các quý bà. Bộ da của chúng cũng rất có giá trị. Vào thế kỷ 18, chúng đã bị săn bắt gần đến tuyệt chủng. Chúng được nuôi từ thế kỷ 19. Thị trường lông đà điểu sụp đổ sau Thế chiến thứ I. Chăn nuôi thương mại bắt đầu trở lại vào thập niên 1970 để lấy lông và sau đó là da. Đà điểu Ả Rập và Nam Tây Á bị tuyệt chủng vào giữa thế kỷ 20.
Đà điểu bị xếp là động vật nguy hiểm ở Úc, Hoa Kỳ và Anh. Chúng đã tấn công và giết chết người. Con mái lớn rất cục bộ, hung hãn và có thể tấn công và đá rất mạnh. Đà điểu có thể chạy nhanh hơn cả một vận động viên điền kinh.
Chuyện đà điểu đâm đầu xuống cát để tránh kẻ thù
Lại nói đến vấn đề đà điểu vùi đầu của mình vào trong cát khi chúng cảm thấy sợ hãi, hay gặp nguy hiểm bởi những kẻ săn mồi. Và khi chúng rúc đầu vào cát, đà điểu coi như vậy là đủ để che giấu toàn bộ thân hình khổng lồ của mình khỏi kẻ địch hùng mạnh phía trước.
Dần dần hành động này của đà điểu đã trở thành một câu chuyện ngụ ngôn, 1 bài học mà người ta hay sử dụng để chế giễu những kẻ hèn yếu, không dám đối đầu với khó khăn hay những thử thách trước mắt mà chỉ tìm cách né tránh.
Tuy nhiên thực tế đà điểu chưa bao giờ vùi đầu mình vào trong cát, vì nếu làm như vậy hậu quả đầu tiên mà đà điểu nhận được là chết ngạt và nó sẽ không thể tồn tại lâu dài, vì cứ hễ gặp kẻ thù mà vùi đầu mình vào cát để mặc thân xác mình cho kẻ thù ăn thịt thì nó sẽ bị tuyệt chủng sớm.

Có thể vì đà điểu hạ thấp đầu xuống cát để chủ tâm nuốt cát và sạn vào để giúp cho việc nghiền nát thức ăn, những lúc như thế này nếu nhìn từ xa rất có thể sẽ bị lầm tưởng chúng đang vùi đầu vào cát.
Trên thực tế khi gặp nguy hiểm đà điểu sẽ nằm áp xuống đất, cổ vươn dài ra, nằm quan sát cho đến khi thấy an toàn, còn khi nó cảm nhận được nguy hiểm thật sự nó sẽ sử dụng đôi chân to khoẻ của mình để chạy bán mạng hòng thoát thân chứ không có chuyện vùi đầu vào cát.