Scrubfowl chân cam (Megapodius reinwardt) là một trong số 22 loài chim được gọi chung là megapode, chúng là những loài chim không ấp trứng.
Xem thêm:
- Maleo & Những chú chim non từ dưới đất chui lên
- Gà tây bụi rậm Úc và cách mà chúng tạo ra cái tổ khổng lồ
Scrubfowl chân cam được tìm thấy ở quần đảo Sunda Lesser cũng như miền nam New Guinea và miền bắc Australia.
Mô tả
Nó là loài chim mặt đất, với kích thước chiều dài cơ thể khoảng 40cm, trọng lượng giao động từ 560-1200g. Cả hai giới tính là giống nhau, nhưng chim mái sẽ nhỏ hơn một chút. Bộ lông khá đơn giản với sự kết hợp của màu đen, nâu và xám, giúp chúng thích nghi tốt với khu vực mà chúng sinh sống. Đôi chân khá to và mạnh mẽ có màu cam, mỏ màu vàng, trên đỉnh đầu còn xuất hiện thêm một chóp lông nhọn.
Môi trường sống
Scrubfowl chân cam sinh sống chủ yếu ở trong rừng, các khu rừng nhiệt đới và thường xuất hiện tại các vùng đất thấp. Nơi có thể cung cấp cho chúng nguồn thức ăn tốt.
Khi kiếm ăn, chúng thường đi một mình hoặc theo cặp, và dành phần lớn thời gian trong ngày để lang thang trên mặt đất. Nó dùng chân xới tung lớp đất ẩm để tìm kiếm, thức ăn bao gồm các loại hạt giống, trái cây rụng, và cả các loài động vật không xương sống mà chúng tìm thấy được khi đào xới đất.
Scrubfowl chân cam rất ít khi bay, nhưng khi gặp nguy hiểm nó cũng sẽ bay vụt lên, và hạ cánh ở một nơi an toàn hơn, tuy nhiên nó không thể bay xa. Chúng thường ít ồn ào hơn các loài megapode khác, nhưng tại các ranh giới lãnh thổ, nó sẽ tạo ra các cuộc gọi to để cảnh báo kẻ thù.
Sinh sản
Scrubfowl chân cam đẻ trứng tại các hang sâu được đào xới bằng đôi chân màu cam khoẻ mạnh, cả hai chim bố mẹ sẽ cùng tham gia vào công việc đào hang làm tổ. Tổ thường được làm ở gần mép rừng hoặc tại các hòn đảo nhò.
Cũng như các loài megapode khác, Scrubfowl chân cam cũng tạo các gò đất lớn có thể cao đến tận 4,5m và đường kính khoảng từ 9 đến 13m. Với hỗn hợp của lá, đấ cát và cành cây khô mục, khi lá và cành cây mục phân huỷ sẽ tạo ra nhiệt, giúp chúng ấp trứng.
Những gò đất này được sử dụng bởi các cặp khác nhau, và sẽ được tái sử dụng hàng năm, nếu tổ không bị phá hoại.
Chim mẹ có thể đẻ khoảng 12 hoặc 13 quả trứng, trong khoảng thời gian từ 9 đến 20 ngày. Thời gian ấp trứng là chưa rõ ràng. Nhưng trứng chỉ được đẻ khi nhiệt độ của gò đất đạt từ 30 đến 35 độ. Và thời gian để đạt đến nhiệt độ này phải mất từ 50 đến 100 ngày.
Các chim non sau khi phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó sẽ dùng mỏ phá vỡ lớp vỏ trứng, và công việc khó khăn tiếp theo là phải vật lộn với lớp đất dày để có thể ngoi lên mặt đất. Hành trình trở về từ lòng đất này có thể mất đến vài giờ. Nó không nhận được sự hỗ trợ hay bất kỳ gì từ chim bố mẹ.
Tuy nhiên hầu hết các chim non đều thoát ra khỏi cái tổ đất, và có thể tự điều chỉnh thân nhiệt, tự kiếm ăn, hơn nữa nó còn có thể bay với khoảng cách ngắn, ở ngay ngày đầu tiên của cuộc đời.
Các loài động vật ăn thịt đe doạ đến tổ trứng, bao gồm các loài kỳ đà, cùng một số loài săn mồi khác. Nhưng nguy hiểm nhất vẫn là con người.
Tại Papua New Guinea, sau những lần hoạt động mạnh của núi lửa, phần lớn người dân đã chuyển đến nơi khác để sinh sống, chỉ còn lại một phần dân cư nghèo khổ không thể di chuyển và họ quyết định ở lại đây, sống chung với khói độc và sự hoang tàn.
Những người này hàng ngày sẽ tìm kiếm trứng của các loài chim megapode, họ dùng cuốc xẻng đào xới dưới lớp đất sâu đến 2m và cố gắng lấy trứng. Trứng sau đó được mang ra chợ bán với giá khoảng 1$. Trả giá cho công việc gian khổ này là tình trạng bỏng, các căn bệnh đường hô hấp và cả ung thư phổi.
Hiện trạng bảo tồn
Scrubfowl chân cam không bị đe doạ trên toàn cầu, tuy nhiên ở một số khu vực, chúng bị đe doạ bởi sự phát triển của con người, suy thoái môi trường cùng các nguy cơ khác.