Vịt uyên ương (Aix galericulata) được biết đến và được tôn sùng tại châu Á từ trước công nguyên. Người phương Tây nhanh chóng nhận ra chúng khi họ xuất hiện tại khu vực Đông Á – những đôi uyên ương nuôi nhốt được đưa sang châu Âu, có lẽ từ đầu thế kỷ 18.
Xem thêm:
Mô tả
Loài vịt này có tên là vịt uyên ương với con trống tên uyên, còn con mái tên ương, Đây là một trong những con chim nước Bắc Mỹ có màu sắc ấn tượng nhất . Kích thước chiều dài của nó là 41–49 cm và sải cánh dài 65–75 cm.
Con trống (còn gọi là uyên) có bộ lông sặc sỡ khó nhầm lẫn. Nó có mỏ đỏ, vệt lông hình lưỡi liềm lớn màu trắng phía trên mắt và mặt đỏ cùng “ria”. Ngực màu tía với hai sọc trắng theo chiều dọc, hai hông hung hung đỏ, với hai cụm lông giống như hai lá buồm màu da cam ở lưng.
Con mái (còn gọi là ương) trông tương tự như con mái của vịt Carolina, với vành khuyên màu trắng quanh mắt và sọc chạy ngược về phía sau từ mắt, nhưng nhạt dần, nó có sọc nhỏ màu trắng bên hông và đầu mỏ nhạt màu.
Loài này đã từng phổ biến ở miền đông châu Á, nhưng sự xuất khẩu ở quy mô lớn và sự phá hủy môi trường sinh sống miền rừng của nó đã làm suy giảm quần thể uyên ương tại miền đông Nga và tại Trung Quốc xuống dưới 1.000 đôi, mặc dù tại Nhật Bản có thể còn khoảng 5.000 đôi.
Các mẫu vật sống thường thoát ra khỏi các bộ sưu tập và trong thế kỷ 20 một quần thể hoang dã với số lượng khoảng 1.000 đôi đã xuất hiện tại Vương quốc Anh. Mặc dù nó có ý nghĩa lớn trong việc bảo tồn, nhưng loài vịt này không được bảo vệ tại đây do loài này không là loài bản địa.
Vào mùa sinh sản
Trong tự nhiên, uyên ương sinh sản trong các khu vực nhiều cây cối gần các ao, hồ nước nông, đầm lầy. Chúng làm tổ thành các hốc trên cây, gần với mặt nước.
con mái lót tổ của mình bằng lông vũ và các vật liệu mềm khác, tổ của chúng khá cao để đề phòng những kẻ săn mồi, Không giống hầu hết các vịt khác, vịt uyên ương có móng vuốt sắc nhọn để đậu trên cây và thậm chí còn có thể leo trèo.
Vịt mái sẽ đẻ từ 7 đến 15 trứng, những quả trứng có màu trắng nâu, và trứng sẽ được ấp trong 30 ngày. tuy nhiên nếu những con vịt khác cũng làm tổ gần đó, chúng sẽ đẻ lẫn lộn vào tổ của nhau dẫn đến 1 tổ mà số lượng trứng có thể tăng đến 30 trứng, và việc ấp trứng đối với những tổ này sẽ không thành công.
Con trống không chăm lo gì đến việc ấp và bảo vệ trứng, nó để mặc cho con mái tự làm lấy việc này. Tuy nhiên, trái với các loài vịt khác, uyên ương trống không bỏ rơi gia đình, nó chỉ tạm thời rời bỏ con mái trong thời gian ấp trứng và sẽ quay trở lại khi trứng đã nở.
Vịt Uyên ương con và thử thách đầu đời
Sau khi vịt uyên ương con nở ra, mẹ chúng bay xuống đất và kêu để giục các con rời tổ, nhưng không hề giúp chúng bằng bất kỳ cách nào. Nếu vịt mẹ làm tổ cạnh mặt nước thì các con non sẽ có cú hạ cánh thoải mái hơn. Nhưng nếu vịt mẹ chọn một nơi cách xa mặt nước thì các con non cũng chẳng ngần ngại mà lao xuống phía dưới.
Những cú nhảy dũng cảm đầu đời của con non bắt đầu sau 1 ngày chào đời, và ngay khi xuống đến mặt nước những chú vịt con đã có thể tự bơi, và tìm thức ăn cho mình. Thức ăn của chúng chủ yếu là những quả mọng, quả sồi, hạt và động vật, có thể nói chúng là động vật ăn thịt.
Sau đó các uyên ương con sẽ theo mẹ đến một vùng nước gần đó, nơi chúng sẽ thường xuyên gặp mặt cha mình. Lúc này uyên ương cha đã quay trở về và bảo vệ con cái cùng mẹ chúng. Nếu như uyên ương cha không có mặt thì nhiều khả năng nó đã chết trong quá trình rời nhà trước đó. Quần thể châu Á là chim di trú, chúng trú đông tại các vùng đất thấp ở miền đông Trung Quốc và miền nam Nhật Bản.
Vịt uyên ương kiếm ăn bằng cách bơi lội hay đi lại trên mặt đất. Chúng chủ yếu ăn các loại rau cỏ và hạt, đặc biệt là quả sồi. Chúng đi kiếm ăn lúc chạng vạng hay rạng đông, còn ban ngày thì đậu trên cây hay ở dưới mặt đất để nghỉ ngơi. Chúng có thể tạo thành các bầy nhỏ trong mùa đông, nhưng ít khi thấy chúng tụ tập cùng các loài vịt khác.
Vịt uyên ương được biết đến và được tôn sùng tại châu Á từ trước công nguyên. Người phương Tây nhanh chóng nhận ra chúng khi họ xuất hiện tại khu vực Đông Á – những đôi uyên ương nuôi nhốt được đưa sang châu Âu có lẽ từ đầu thế kỷ 18.
Vịt uyên ương khá dễ nuôi cũng như dễ sinh đẻ và vì thế được nhiều người chăn nuôi trong các khu bảo tồn phục vụ cho săn bắn/du lịch cũng như trong các vườn bách thú.