Nuốc bụng vàng (Harpactes oreskios) là một loài chim thuộc họ Trogonidae, đặc trưng bởi vẻ đẹp và màu sắc phong phú. Loài này phân bố chủ yếu ở các khu vực rừng tán thấp, tại miền nam Trung Quốc, Đông Nam Á, cũng như các đảo Borneo, Sumatra và Java.
Nuốc bụng vàng chủ yếu ăn côn trùng và săn mồi từ các cành cây nhô ra. Quá trình sinh sản của loài chim này diễn ra từ tháng 1 đến tháng 5, tổ được lót trong các hốc cây chết. Trong quá trình nuôi con, cả bố và mẹ đều hợp tác chăm sóc chim non…
Xem thêm:
- Nuốc Nữ Hoàng – Loài Chim Đẹp Trong Thần Thoại Guatemala
- Gà Lôi Nước Châu Phi & Hành Vi Kì Lạ Trong Mùa Sinh Sản
Mục Lục
Phân loại
Nuốc bụng vàng là một thành viên của bộ Trogoniformes , thuộc họ Trogonidae, là một họ tương đối nhỏ gồm 39 loài chim nhiệt đới. Chi Harpactes chứa trogon châu Á . H. oreskios là nhóm chị em của trogon Philippine ( Harpactes ardens ) và trogon của Diard ( Harpactes diardii ).
Năm phân loài được công nhận bao gồm:
- H. o. oreskios (Loài này xuất hiện ở Java )
- H. o. stellae ( Được tìm thấy từ miền nam Trung Quốc và Myanmar tới Đông Dương )
- H. o. uniformis ( Được tìm thấy từ miền nam Thái Lan và bán đảo Malaysia đến Sumatra )
- H. o. nias ( Được tìm thấy ở Nias )
- H. o. dulitensis ( Loài này xuất hiện ở Borneo )
Mô tả
Nuốc bụng vàng là loài chim cỡ trung bình, chiều dài thân từ 25 đến 31 cm, cân nặng khoảng 49 đến 57 g. Chim trống có đầu màu vàng ô liu xỉn và màu hạt dẻ đỏ kéo dài từ phần lưng đến phần trên của đuôi. Bên dưới đuôi có màu đen và trắng. Các lông cánh sơ cấp có màu đen với các thanh dọc màu trắng kèm theo các vạch đen. Phần bụng dưới có màu vàng cam, màu lông trở nên nhạt màu hơn khi xuống phần đuôi.

Loài chim này có một quầng mắt màu xanh. Chim mái có đầu và phần trên màu nâu xám hơn, ngực màu xám thêm màu vàng ở bụng và phần cuối đuôi. Cả hai giới tính đều có bàn chân màu xám với hai ngón chân hướng về phía sau, đây cũng là một đặc điểm chung của loài trogon.
Các phân loài có thể khác nhau đôi chút; clockis và dulitensis nhỏ hơn các phân loài khác và có phần ức màu vàng hoặc xanh lục hơn; nias có phần đầu sẫm màu hơn và mỏ lớn hơn những phân loài khác; Stellae có ngực nhạt hơn và đuôi dài hơn.
Phân bố và môi trường sống
Các phân loài khác nhau của Nuốc bụng vàng có thể được tìm thấy ở miền nam Trung Quốc, Thái Lan, bán đảo Malaysia, Borneo, Sumatra, Java, Nias và Lào. Phân loài H. o. Stellae được tìm thấy từ miền nam Trung Quốc và Myanmar tới Đông Dương; Phân loài H. o. uniformis được tìm thấy từ miền nam Thái Lan và bán đảo Malaysia đến Sumatra; Phân loài H. o. nias được tìm thấy ở Nias; Phân loài H. o. dulitensis xuất hiện ở Borneo; và “H. o. oreskios xuất hiện ở Java.
Nuốc bụng vàng là loài không di cư. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng vùng núi, rừng thường xanh ẩm ướt ở độ cao từ thấp đến trung bình, vùng đầm lầy, rừng khô thưa, rừng tre, rừng cây thưa, và đôi khi là những cụm cây gần rừng. Ở Thái Lan, bán đảo Malaysia, và Borneo, Sumatra và Java, chúng chiếm giữ vùng đất thấp ở độ cao lần lượt là 1100 m, 1300 m, 300–1500 m và 1200 m. Ở Nias, chúng có mặt tại các khu rừng thứ sinh thấp.
Tiếng kêu
Nói chung, tiếng kêu sẽ bắt đầu bằng nốt 1–3 “to (to)” rồi đến nốt 3–4 “tau-tau-tau” . Các phân loài khác nhau có thể có giọng hót hơi khác một chút; giọng hót của chim trống phân loài H. o. stellae là năm nốt kek tau-tau-tau-tau-tau với âm điệu gay gắt lặp đi lặp lại kiểu như tiếng kek-kek .

Chim nuốc bụng vàng ăn gì ?
Loài chim này ăn côn trùng. Khi kiếm ăn, nuốc bụng vàng sử dụng kỹ thuật “sally-stall”. Kỹ thuật này bao gồm việc truy đuổi con mồi từ một cành cây nhô ra và sau đó dừng lại trong giây lát trước nó tiếp tục với một chuyển động rung chuyển trước khi tóm lấy con mồi. Thông thường nuốc bụng vàng có thể kiếm ăn ở độ cao 4,3–13,7 m, phổ biến nhất là khoảng 9,5 m. Ngoài côn trùng, loài chim này cũng ăn thêm nhiều loài động vật chân đốt khác nhau: ấu trùng Phasmatodea , Orthoptera và Lepidoptera .
Sinh sản
Thời gian sinh sản là khác nhau giữa các phân loài, nhưng trung bình kéo dài 2–3 tháng, bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 5. Tổ được tạo ra bằng cách đào một hốc nông ở bên cạnh hoặc trên đỉnh của một thân cây mục nát, hoặc cành cây chết trên một cây còn xanh. Đây là sự hợp tác nỗ lực chung của cả chim trống và chim mái, cả hai làm việc luân phiên; khi một con đang làm việc, con chim còn lại sẽ đậu ở một cành cây gần đó. Thời gian làm tổ khoảng 12–14 ngày.
Chim mái đẻ mỗi lứa từ 2-3 quả trứng. Trách nhiệm ấp trứng cũng được luân phiên cho cả hai; Chim trống có xu hướng ấp trứng vào ban ngày và chim mái có xu hướng ấp qua đêm. Thời gian ấp trứng kéo dài khoảng 17–18 ngày. Qủa trứng nhẵn, có hình bầu dục và có màu ngà bẩn hoặc màu ô liu nhạt.
Trong thời gian này chim trống đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp thức ăn cho chim non nhiều hơn so với chim mái. Trong nhiều trường hợp, chim trống sẽ đưa thức ăn cho chim mái sau đó chim mái sẽ mớm lại cho các con non.

Loài chim này sinh sản ngoài thời kỳ cao điểm có sẵn nguồn thức ăn, tức là sớm hơn 4–5 tháng. Điều này có thể là do loài nuốc đầu đỏ lớn hơn tránh thời kỳ sinh sản, loài cạnh tranh thức ăn với một vài loài nuốc khác.
Hiện trạng bảo tồn
Nuốc bụng vàng được IUNC phân loại là loài ít quan tâm nhất , tuy nhiên quy mô quần thể đang giảm. Loài này chủ yếu hiện diện ở các khu vực được bảo vệ trong phạm vi phân bố của nó.
Tuổi thọ
(Đang cập nhật)